Thực đơn
Hiếu_Hiền_Thuần_hoàng_hậu Hoàng hậu Đại ThanhNăm Ung Chính thứ 5 (1727), mùa xuân, Phú Sát thị 16 tuổi tham gia Bát Kỳ tuyển tú, được chỉ định làm Đích Phúc tấn của Hoàng tứ tử Hoằng Lịch.
Cuộc Bát Kỳ tuyển tú thời nhà Thanh, là chọn các Tú nữ thuộc [Kỳ phân Tá lĩnh] trong Bát kỳ của Mãn Châu, Mông Cổ cùng Hán Quân dự tuyển, cuộc tuyển chọn này nhằm lựa chọn hôn phối cho thành viên hoàng thất, thứ đến là làm hậu cung tần phi. Sau khi quan sát tỉ mỉ quá trình tuyển chọn Bát Kỳ tú nữ trong nhiều tháng, cuối cùng Ung Chính Đế nhìn ra Phú Sát thị đoan trang tú mỹ văn tĩnh thiếu nữ, quyết định chỉ hôn cho Tứ a ca Hoằng Lịch. Vị thế của gia tộc Phú Sát thị là rất lớn, bởi vì đây là dòng họ thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là kỳ tịch gốc của hoàng thất do đích thân Hoàng đế quản lý. Việc làm này của Ung Chính Đế không chỉ ngầm khẳng định vị trí Hoàng đế tương lai của Hoằng Lịch, mà còn ngầm nhìn thấy Phú Sát thị có sẵn tố chất mẫu nghi thiên hạ.
Ngày 18 tháng 7 (âm lịch) cùng năm, tại Tây Nhị sở của Tử Cấm Thành (về sau Càn Long Đế đổi gọi Trùng Hoa cung), Ung Chính Đế đã tổ chức một hôn lễ long trọng, gả Phú Sát thị cho Tứ a ca Hoằng Lịch, nghiễm nhiên bà có được vị trí Đích Phúc tấn của Hoàng tứ tử. Sau khi kết hôn, Hoằng Lịch và Phú Sát thị tôn trọng nhau, tình cảm chân thành, thập phần ân ái. Năm Ung Chính thứ 6 (1728), ngày 2 tháng 10, bà sinh hạ Hoàng trưởng nữ. Năm thứ 8 (1730), ngày 26 tháng 6, giờ Thân, Phú Sát thị hạ sinh Vĩnh Liễn. Cùng năm ấy, ngày 27 tháng 12, Hoàng trưởng nữ - con gái đầu lòng của bà qua đời. Năm thứ 9 (1731), ngày 24 tháng 5, Phú Sát thị sinh hạ Cố Luân Hòa Kính công chúa.
Năm Ung Chính thứ 11 (1733), Hoàng tứ tử Hoằng Lịch thụ tước [Hòa Thạc Bảo Thân vương; 和碩寶親王], Phúc tấn Phú Sát thị do vậy từ [Hoàng tứ tử Đích Phúc tấn] trở thành [Bảo Thân vương Đích Phúc tấn; 宝亲王嫡福晋].
Năm Ung Chính thứ 13 (1735), 23 tháng 8 (âm lịch), Ung Chính Đế băng hà. Ngày 3 tháng 9 (âm lịch), Bảo Thân vương Hoằng Lịch nối ngôi, tức [Càn Long Đế]. Cùng ngày hôm đó, Hoàng đế tấn tôn Hi phi Nữu Hỗ Lộc thị làm Hoàng thái hậu, và sách lập Đích phúc tấn Phú Sát thị làm Hoàng hậu. Tuy nhiên lúc đó Càn Long Đế đang thủ tang, phải đợi khi mãn tang Tiên đế thì mới cử hành đại lễ tấn phong.
Sang ngày 8 tháng 12 (âm lịch) cùng năm, chỉ dụ chuẩn bị làm đại điển tấn lập Hoàng hậu[3]. Chỉ dụ nói:
Năm Càn Long thứ 2 (1737), ngày 4 tháng 12, lấy Bảo Hòa điện Đại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái làm Chính sứ, Hộ bộ Thượng thư Hải Vọng (海望) làm Phó sứ, cầm cờ tiết, sách bảo, tiến hành nghi thức đại điển tấn lập Hoàng hậu[4]. Chiếu cáo thiên hạ[5].
Sách văn viết:
Nơi mà Phú Sát Hoàng hậu cư ngụ chính là một trong Tây lục cung, Trường Xuân cung. Khi còn là Hoàng tử, Càn Long Đế từng được Ung Chính Đế ban cho phong hiệu [Trường Xuân cư sĩ; 長春居士]. Về sau khi lên ngôi, Càn Long Đế lại ban Trường Xuân cung cho Hoàng hậu, tại Viên Minh Viên lại ban Trường Xuân tiên quán (長春仙馆). Đem vị hào khi còn trẻ của chính mình làm nơi ở cho thê tử, cho thấy tình cảm nồng hậu của ông đối với bà.
Suốt thời tại vị, bà được biết đến là người thục đức có uy tín và luôn hoàn thành tốt cương vị Hoàng hậu của mình. Bên cạnh đó, sử sách ghi lại bà hành xử đoan trang và giản dị, chi tiêu trong cung đều giản lược, thích cài trang sức được gọi là [Thông thảo Nhung hoa; 通草絨花][6] thay cho các trang sức đắt tiền như châu thúy[7]. Như trang sức ["Hà bao"; 荷包] mà Càn Long Đế dùng bên mình, Phú Sát thị chủ động làm ra mà không dùng kim ngân ti tuyến, mà lại dùng da hươu để tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, Hoàng hậu Phú Sát thị còn nổi tiếng đối xử hòa nhã với các phi tần trong hậu cung.
Trong khi đó, gia đình của bà liên tiếp được trọng dụng, cha là Lý Vinh Bảo được truy tước vị [Nhất đẳng Thừa Ân công; 一等承恩公] (Lý Vinh Bảo mất ngay năm 1723). Anh em con cháu trong họ Phú Sát thị được cất nhắc đặc biệt, đặc biệt là em trai út của bà, Đại học sĩ Phó Hằng cùng người con trai của ông là Phúc Khang An, đã khiến gia tộc Phú Sát thị đạt đến vinh quang trong suốt thời đại Càn Long. Gia ân hậu đãi, không thể không gia ân tước vị. Gia đình bà có được 8 tước thế chức truyền đời, dành cho hậu duệ của Lý Vinh Bảo. Từ triều Gia Khánh bắt đầu, hậu duệ Lý Vinh Bảo có 8 thế gia phân nhánh, phân biệt là:
Như vậy, một chi gia tộc Phú Sát thị của Lý Vinh Bảo về sau cũng chia ra từ các tước thế tập này mà hình thành thêm 8 chi đại gia khác nữa, sự vinh diệu này, dù là do Hoàng hậu Phú Sát thị được sủng ái, cũng chưa từng thấy qua trong các dòng dõi ngoại thích khác của triều Thanh. Ngay cả em rể của Hoàng hậu là Tát Lạt Thiện (薩喇善), từ một Tông thất Thị vệ nhỏ nhoi, do là anh em cột chèo với Hoàng đế mà nâng lên làm quan to, Phó đô thống, Cát Lâm Tướng quân, lại còn gia thêm thế chức [Vân kỵ úy] cho hậu duệ. Ngoài ra, hai cháu gái của bà, con gái của Thừa Ân công Phó Văn, lần lượt gả cho Dự Lương Thân vương Tu Linh và Thuận Thừa Cung Quận vương Thái Phỉ Anh A làm Đích Phúc tấn, cả hai vị này đều là Thiết mạo tử vương. Một cháu gái, con của Phó Khiêm, về sau làm Đích Phúc tấn của Lục a ca Vĩnh Dung - con trai thứ 6 của Càn Long Đế.
Năm Càn Long thứ 3 (1738), ngày 12 tháng 10, giờ Tỵ, Hoàng nhị tử Vĩnh Liễn qua đời khi mới 8 tuổi. Đế - Hậu bi thương vô hạn, đặc biệt là Phú Sát Hoàng hậu đã chịu đả kích lớn. Càn Long Đế 5 ngày không thiết triều. Quá thương con, Càn Long Đế cử hành lễ tang Vĩnh Liễn, phong làm Hoàng thái tử, thụy Đoan Tuệ Thái tử (端慧太子), lại ra chỉ kị húy chữ Liễn trong tên của Hoàng tử.
Năm Càn Long thứ 11 (1746), ngày 27 tháng 5, tức ngày Phật đản (8 tháng 4 âm lịch), bà sinh ra con trai thứ 7 của Càn Long Đế, tức Vĩnh Tông. Trước đó, nghe tin bà mang thai, Càn Long Đế phá bỏ lệ thường hay du ngoạn Viên Minh Viên đón tết Nguyên tiêu, mà ở lại Tử Cấm Thành bầu bạn với mẹ con bà. Hoàng hậu sinh hạ Hoàng thất tử, cùng ngày gặp mưa sau nhiều tháng hạn hán kéo dài, Càn Long Đế vốn hết lòng tin theo Phật giáo đã thập phần vui sướng, lần cảm thán thiên ân chiếu cố.
Hoàng thất tử nhỏ tuổi mà đĩnh ngộ xuất chúng khiến Càn Long Đế yêu thương tha thiết, tên [Vĩnh Tông] của Hoàng tử chính là ngầm ý là người trở thành Trữ quân tương lai. Tuy rằng lúc này Càn Long Đế đã có vài đứa con trai, nhưng ông đối với Hoàng thất tử vẫn cứ yêu như trân bảo, cảm thấy đứa nhỏ này là đứa con xinh đẹp nhất và đáng yêu nhất, “Tính thành túc tuệ, kỳ nghi biểu dị, xuất từ chính đích, thông minh thù thường.”[8]. Thế nhưng Hoàng tử không may yểu mệnh vào năm thứ 12, ngày 29 tháng 12 (âm lịch) khi chưa đầy 1 tuổi. Ban thụy Điệu Mẫn (悼敏). Đây là đặc biệt truy tặng đáng chú ý, vì Hoàng tử chết yểu nhà Thanh thường không được truy phong dù là con trai của Hoàng hậu đi nữa, như con trai lớn Thừa Hỗ của Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu là ví dụ.
Cái chết lần lượt của hai người con gây tổn thương nghiêm trọng cho Hoàng hậu, dù Càn Long Đế đã hết sức thông cảm và an ủi bà. Từ khi đó, Hoàng hậu luôn thường có bệnh, Càn Long Đế thường đến điện án cầu phúc, cầu xin Liệt tổ liệt tông phù hộ Hoàng hậu sớm khỏi bệnh, lại sinh hạ Đích tử. Không lâu sau cái chết của Thất hoàng tử, Hoàng hậu qua đời để lại niềm tiếc thương vô hạn cho Càn Long Đế. Sách Kim Xuyên kỉ lược (金川纪略), ghi lại rằng lời đồn trong cung, từ khi Phú Sát hoàng hậu mất đi Hoàng thất tử, thương tiếc thành tật, bà nói cho Càn Long Đế rằng đêm nào cũng mơ thấy Bích Hà Nguyên quân, triệu hoán bà, bà đã ưng thuận tâm nguyện, sau khi khỏi bệnh sẽ hướng đến Thái Sơn tạ thần. Hoàng đế học thức uyên bác, biết Bích Hà Nguyên quân vốn là Thần nữ ở núi Thái Sơn, bèn đáp ứng yêu cầu của Hoàng hậu.
Thực đơn
Hiếu_Hiền_Thuần_hoàng_hậu Hoàng hậu Đại ThanhLiên quan
Tài liệu tham khảo
WikiPedia: Hiếu_Hiền_Thuần_hoàng_hậu http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qsljqcs... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qsljqcs... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qsljqcs... http://www.guoxuedashi.com/a/5701m/ http://www.guoxuedashi.com/a/5701m/88987a.html http://www.guoxuedashi.com/a/5701m/89240n.html http://www.guoxuedashi.com/a/5701m/89244n.html